DỊCH CORONAVIRUS 2019 MỚI VÀ BỆNH THẬN

Kidney International (2020) – https://doi.org/10.1016/j.kint.2020.03.001 KEYWORDS: acute kidney injury; hemodialysis

Copyright ª 2020, International Society of Nephrology. Published by Elsevier Inc. This is an open access article under the CC BY-NC-ND license (http://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0/).

Bệnh Coronavirus mới (COVID-19) là một bệnh truyền nhiễm mới được phát hiện dẫn đến hội chứng hô hấp cấp mức độ nặng (SARS) – virus corona (CoV)-2, biểu hiện ban đầu giống như một bệnh lý hô hấp cấp với viêm phổi kẽ và phế nang, nhưng nó có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan như thận, tim, đường tiêu hóa, máu và hệ thống thần kinh. Sự bùng phát nhanh chóng, mà diễn ra đầu tiên ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019, kể từ đó đã được công bố là một đại dịch toàn cầu. Ngày 16 tháng ba năm 2020, 167.511 ca bệnh COVID-19 đã được báo cáo ở 151 quốc gia trên thế giới (và ở cả các tầu du lịch). Với 6606 ca tử vong2. Những ngày gần đây, số ca bệnh tăng lên nhanh chóng ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Châu Âu và Hoa Kỳ.

SARS-CoV-2 đã được xác định là một loại virus CoV có nguồn gốc từ dơi. Trình tự bộ gen đầy đủ của virus COVID-19 có liên hệ chặt chẽ với SARS dơi tương tự như chủng coronavirrus BatCov RTG13 thuộc chi Betacorronavirus.3

Nhiễm coronavirus trước đây, SARS-CoV và Coronavirrus gây Hội chứng Hô hấp Trung Đông (MERS-Co-V), đã lây nhiễm cho hơn 10.000 người trong hai thập kỷ trước, với tỷ lệ tử vong là 10% và 37%, tương ứng.4,5 COVID-19 có khả năng lây nhiễm nhanh hơn các bệnh lý đó, các con đường lây truyền từ người sang người qua giọt bắn, phân, và tiếp xúc trực tiếp, và có thời gian ủ bệnh ước tính là từ 1 đến 14 ngày (thường từ 3 đến 7 ngày).

Sự lây nhiễm đã được báo cáo ở mọi lứa tuổi, trong đó có trẻ em. Phần lớn người nhiễm có biểu hiện nhẹ, với các triệu chứng giống cúm. Các biểu hiện lâm sàng phổ biến của COVID-19 là sốt (98%), ho (76%), và đau cơ và mệt mỏi (18% mỗi triệu chứng)6, đi kèm giảm bạch cầu (25%) và giảm lympho máu (63%). Triệu chứng của nhiễm khuẩn đường hô hấp trên với chảy nước mũi và ho là không phổ biến, ngoại trừ trẻ em. Khoảng 16 đến 20% ca bệnh được phân loại mức độ nặng và nguy kịch. Trong 41 bệnh nhân đã được mô tả bởi Hang và cộng sự6, toàn bộ có giảm bạch cầu với các bất thường trên chụp CT ngực (đông đặc thùy hai bên và các vùng dưới phân thùy), và 32% yêu cầu chăm sóc tại các đơn vị chăm sóc tích cực. Nồng độ huyết tương của cytokine cao hơn (interleukin [IL]-2, IL-7, IL-10, granulocyte-colony stimulating factor, interferon-inducing protein-10, monocyte chemoattractant protein 1, macrophage inflammatory protein-1a, tumor necrosis factor a) xuất hiện ở bệnh nhân yêu cầu chăm sóc tích cực thêm. Các báo cáo hạn chế đề nghị rằng các biến chứng nặng là không phổ biến ở trẻ em7.

Chẩn đoán

Chẩn đoán chủ yếu dựa trên yếu tố dịch tễ (tiền sử tiếp xúc), biểu hiện lâm sàng, xét nghiệm (công thức máu, CT ngực, và xét nghiệm virus)8. Lưu ý, có nhưng ca bệnh mà không có tiền sử đi lại hoặc tiếp xúc với người mắc bệnh. Nhiều xét nghiệm phát hiện acid nucleic COVID-19 đã được phát triển. Các xét nghiệm đó sử dụng kỹ thuật phản ứng chuỗi polymerase huỳnh quang và kỹ thuật probe anchoring polymerization. Xét nghiệm trình tự gen cũng đã được sử dụng9. Một xét nghiệm huyết thanh học cũng đã được phát triển và cho phép phát hiện nhiều ca bệnh ở Singapore10. Các phưng pháp xét nghiệm có độ nhạy và tính tiện lợi nhiều hơn vẫn liên tục được phát triển.

Tổn thương thận trong nhiễm COVID-19

Các báo cáo trước đây đối với nhiễm SARS và MERS-CoV, tổn thương thận cấp (AKI) xuất hiện trong 5% đến 15% ca bệnh và  dẫn đến tỷ lệ tử vong cao (60-80%). Các báo cáo ban đầu đề nghị một tỷ lệ AKI thấp hơn (khoảng 3-9%) ở những người nhiễm COVID-191,11-13. Tuy nhiên, các báo cáo hiện nay cho thấy tỷ lệ bất thường thận cao hơn. Một nghiên cứu 59 bệnh nhân COVID-19 thấy rằng 34% bệnh nhân có albumin niệu cao ở ngày nhiễm bệnh đầu tiên, và 63% có protein niệu trong thời gian điều trị tại bệnh viện14. Ure nitrogen máu tăng trong 27% ở toàn bộ bệnh nhân và 2/3 số bệnh nhân đó tử vong. Chụp CT thận cho thấy giảm tỷ trọng, gợi ý tình trạng viêm và phù. Cheng và cộng sự13 gần đây báo cáo rằng trong số 710 bệnh nhân nhập viện nhiễm COVID-19, 44% có protein và hồng cầu niệu và 26.7% có đái máu ở ngày đầu nhập viện. Tỷ lệ lưu hành của tăng creatinin máu và uro nitrogen máu là 15.5% và 14.1%, tương ứng. AKI là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân điều trị nội trú13,14.

Cơ chế bệnh sinh của tổn thương thận

Cơ chế chính xác của tổn thương thận là chưa rõ ràng: các cơ chế bệnh được đề xuất bao gồm nhiễm trùng dẫn đến “hội chứng bão cytokine” hoặc tổn thương tế bào trực tiếp do virus. Men chuyển angiotensin và dipeptidyl peptidase-4, cả hai xuất hiện trên tế bào ống thận, đã được xác định là các phần gắn kết của SARS-CoV và MERS-CoV, tương ứng15,16. RNA virus đã được xác định ở trên mô thận và nước tiểu ở cả hai bệnh lây nhiễm17,18. Gần đây, phòng xét nghiệm Zhong ở Quảng Châu đã phân lập thành công SARS-CoV-2 từ mẫu nước tiểu ở một bệnh nhân nhiễm bệnh, đề nghị thận là một cơ quan đích của coronavirus mới.

Điều trị

Điều trị hiện tại của nhiễm COVID-19 có AKI bao gồm điều trị chung, điều trị hỗ trợ và điều trị thay thế thận. Không có điều trị kháng virus nào hiệu quả ở thời điểm hiện tại.

Điều trị chung

Toàn bộ bệnh nhân xác nhận nhiễm COVID-19 cần được cách ly. Khẩu trang N95 phù hợp, quần áo và dụng cụ bảo vệ là cần thiết. Nhập viện sớm vào đơn vị điều trị tích cực trong các bệnh viện đã được thiết kế phù hợp được khuyến cáo cho những bệnh nhân biểu hiện nặng.

Điều trị hỗ trợ, nghỉ ngơi tại giường bệnh, hỗ trợ dinh dưỡng và bù dịch, duy trì huyết áp và oxy máu là thông số đo quan trọng, cho toàn bộ bệnh nhân nguy kịch. Các vấn đề khác bao gồm phòng ngừa và điều trị biến chứng bằng việc cung cấp điều trị hỗ trợ các cơ quan, duy trì huyết động ổn định, đề phòng nhiễm trùng thứ phát.

Điều trị kháng virus

Không có thuốc kháng virus nào đặc hiệu đối với COVID-19 ở thời điểm hiện tại. Các hướng dẫn của Ủy ban Y tế Quốc Gia Trung Quốc khuyến cáo khí dung interferon α và opinavir/ritonavir. Các chỉ số điều trị đặc hiệu và tính an toàn của opinavir/ritonavir là ở dưới mức điều tra (ChiCTR2000029308)2. Điều trị thành công với remdesivir đã dược báo cáo ở bệnh nhân COVID-19; một thử nghiệm lâm sàng trên tính hiệu quả của remdesivir ở bệnh nhân COVID-19 hiện đang được tiến hành ở Trung Quốc (NCT0425266; NCT04257656) và dự kiến hoàn thành trong tháng 4 năm 2020. Chloroquine phosphate cho thấy có một số tác dụng chống lại viêm phổi liên quan đến  COVID-19 ở các thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm đã được kết luận ở Trung Quốc.21

Điều trị ngoài cơ thể

Điều trị thay thế thận liên tục (CRRT) đã được ứng dụng thành công trong điều trị SARS, MERS, và nhiễm trùng22,23. Siêu lọc máu thể tích cao với liều 6l/h loại bỏ các cytokine gây viêm (IL-6) và cải thiện điểm Đánh giá Suy đa tạng tiếp theo ở ngày thứ 7 ở bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng24. Do đó, CRRT có thể đóng vai trò ở những bệnh nhân COVID-19 và hội chứng nhiễm trùng.  Tuy nhiên, vai trò có khả năng của kỹ thuật điều trị ngoài cơ thể cần được đánh giá thêm.

Glucocorticoid

Trong một nghiên cứu hồi cứu ở bệnh nhân SARS-CoV-2 có hội chứng nhiễm trùng, steroid, với liều trung bình hàng ngày là 105.3±86.1 mg ở 147 trong 249 bệnh nhân không nguy kịch (59.0%), tỷ lệ tử vong giảm và thời gian điều trị nội trú ngắn, trong khi đó, 121 trong 152 bệnh nhân nguy kịch (79.6%) điều trị với corticosteroid với liều trung bình hàng ngày là 133.5 ± 102.3 mg, và 25 bệnh nhân tử vong25. Một nghiên cứu quan sát, hồi cứu sau đó gồm 309 bệnh nhân MERS cho thấy rằng nhu cầu thở máy, thuốc vận mạch và điều trị thay thế thận nhiều hơn26. Trong một meta-analysis sử dụng corticosteroid ở bệnh nhân SARS, 4 nghiên cứu cung cấp bằng chứng về tác hại (rối loạn tâm thần, đái tháo đường, xơ hóa mạch máu, và thanh thải virus chậm)27. Do đó, sử dụng steroid gây tranh cãi và không được WHO khuyến cáo bởi tác dụng ức chế thanh thải virus và kéo dài thời gian tồn tại của virus trong máu.28.

Huyết tương người hồi phục

Các nghiên cứu ban đầu ở Trung Quốc cho thấy rằng sớm ứng dụng plasma của người bệnh nhiễm COVID -19 hồi phục có thể thúc đẩy hồi phục lâm sàng6. 2 thử nghiệm hiện tại, một thử nghiệm lâm sàng mở nhãn, không ngẫu nhiên (NCT04264858) và một thử nghiệm kiểm soát đôi, ngẫu nhiên, đa trung tâm (ChiCTR2000029757) trên tính hiệu quả của plasma người hồi phục ở bệnh nhân COVID-19, đang được tiến hành ở Trung Quốc.

Kháng thể đơn dòng

Kháng thể đơn dòng trực tiếp kháng vùng liên kết Ras của protein S của MERS-CoV đã được phát hiện là có hoạt hóa trung tính trên xét nghiệm mảng in vitro. Kháng thể đơn dòng chống lại COVID-19 vẫn chưa được phát triển. Tocilizumab, một kháng thể đơn dòng kháng thụ thể IL-6, đã đạt được kết quả lâm sàng sơ bộ khá khích lệ. Tính an toàn và hiệu của của tocilizumab trong nhiễm COVID-19 đang được đánh giá bởi thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên đa trung tâm (ChiCTR2000029765).

COVID-19 ở bệnh nhân bệnh thận

Phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh, người cao tuổi và bệnh nhân có bệnh lý nền như đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh tim mạch là đối tượng mẫn cảm với COVID-19 và dường như có biểu hiện bệnh nặng hơn, thường đòi hỏi điều trị tại các đơn vị điều trị tích cực. Ảnh hưởng của COVID-19 trên bệnh thận mạn chưa được báo cáo30.

Nhiễm COVID-19 biểu hiện mối đe dọa đặc biệt cho bệnh nhân lọc máu. Có 7184 bệnh nhân lọc máu (HD) tại 61 trung tâm điều trị ở Vũ Hán. Tại một trung tâm HD thuộc bệnh viện Rennin, Đại học Vũ Hán, 37 trong số 230 bệnh nhân HD và 4 trong 33 nhân viên nhiễm COVID-19 trong thời gian từ 14 tháng 1 đến 17 tháng 2 năm 202030. Tổng cộng có 7 bệnh nhân HD tử vong, trong đó 6 người nhiễm COVID-19. Tuy nhiên, những người tử vong được cho là do nguyên nhân bệnh tim mạch và không trực tiếp do nhiễm COVID -19. Bệnh nhân HD nhiễm COVID-19 ít có hạ bạch cầu, nồng độ huyết thanh của các cytokine gây viêm thấp hơn bệnh nhân nhiễm COVID-19.

Quản lý bệnh nhân lọc máu.

Nhiễm COVID-19 là thách thức đặc biệt cho bệnh nhân lọc máu, đặc biệt, những người lọc máu tại các trung tâm HD. Bệnh nhân tăng ure máu là đối tượng tổn thương đặc biệt với nhiễm trùng và có thể có thay đổi lớn hơn trong biểu hiện triệu chứng lâm sàng và tình trạng nhiễm trùng. Tại trung tâm HD, nguy cơ lây nhiễm tăng đáng kể, gồm cho nhân viên y tế và các nhân viên khác, bản thân bệnh nhân, người nhà người bệnh, và toàn bộ các đối tượng khác.

Hội Thận học Trung Quốc31 và Hội Thận học Đài Loan hiện đang xây dựng hướng dẫn cho các đơn vị lọc máu trong điều kiện bùng nổ COVID-19. Tổng hợp các hướng dẫn đó bao gồm:

1. Đội làm việc bao gồm các bác sỹ lọc máu, điều dưỡng, kỹ thuật viên nên được đào tạo cập nhật các kiến thức lâm sàng của dịch COVID-19, chú ý đến lây nhiễm ở mức độ nguy cơ, bùng phát dịch, công cụ phòng ngừa, và các hướng dẫn từ chính phủ, tổ chức xã hội, và các bệnh viện. Danh sách nhân viên nên được ghi lại và lưu trữ tại bệnh viện.

2. Thông tin về tiền sử di chuyển, công việc, tiếp xúc, và hội họp của mỗi nhân viên, bệnh nhân lọc máu, người nhà, dân cư liên quan và đồng nghiệp nên được thu thập và cập nhật thường xuyên.

3. Các khuyến cáo điều trị sau cùng và thông tin dịch bệnh nên được cập nhật và chia sẻ đến toàn bộ nhân viên y tế là cần thiết. Đào tạo nên được thực hiện thông qua mạng nội bộ hoặc online.

4. Các hoạt động nhóm, bao gồm nhóm nghiên cứu, thảo luận ca bệnh nên được giảm thiểu.

5. Người ta khuyến cáo rằng nhân viên ăn uống tại các thời điểm khác nhau để tránh việc ăn uống cùng nhau. Kính bảo hộ, khẩu trang, mũ nên được thay trước mỗi bữa ăn, và rửa tay dưới vòi nước chảy. Hạn chế nói chuyện trong quá trình ăn uống để giảm thiểu lây nhiễm qua giọt bắn.

6. Nhân viên nên tự theo dõi các triệu chứng của bản thân và nên thông báo đến lãnh đạo trong trường hợp họ hoặc người trong gia đình của họ có triệu chứng gợi ý nhiễm COVID-19.

7. Kiểm soát lối vào, nhận biết và cách ly người có nguy cơ lây nhiễm, rửa tay, đeo khẩu trang bảo hộ (phẫu thuật hoặc N95) trong quá trình thực hiện thủ thuật, khử khuẩn máy, làm sạch môi trường, điều hòa không khí tốt, và các điều kiện thông khí nên được thiết lập.

8. Bệnh nhân và người đi kèm nên được khử trùng tay khi đến phòng lọc máu. Bệnh nhân nên đeo khẩu trang y tế và không được ăn uống trong lúc lọc máu. Họ có thể mang các loại đồ ăn tiện lợi như loại đóng hộp để đề phòng hạ đường huyết.

9. Những bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác định là nhiễm COVID-19 nên được đưa đến khu vực cách ly áp lực âm ở các bệnh viện đặc biệt. Nếu khả năng cách ly bị quá tải, Mô hình điều trị lọc máu cố định nêu chi tiết ở dưới được khuyến cáo cho bệnh nhân trong vòng 14 ngày cách ly do việc tiếp xúc với bệnh nhân COVID-19.

a. Tại nơi lọc máu: bệnh nhân nên tiếp tục chạy thận ở các trung tâm của khu vực và không nên chuyển đến trung tâm khác.

b. Ca lọc máu và nhân viên: không nên thay đổi ca lọc máu và nhân viên điều trị để tránh lây nhiễm chéo và bị lây nhiễm. Giảm thiểu các tiếp xúc với nhau.

c. Bệnh nhân cần phẫu thuật đường vào mạch máu nên được sàng lọc coronavirus mới trước khi phẫu thuật. Quá trình phẫu thuật trên bệnh nhân đã xác định hoặc nghi ngờ nhiễm coronavirus nên được thực hiện trong phòng phẫu thuật áp lực âm với các phương tiện bảo thích hợp cho nhân viên y tế.

d. Vận chuyển: Phương tiện vận chuyển công cộng không nên sử dụng. Bệnh nhân nên đi lại bằng phương tiện vận chuyển cá nhân và đi trên các tuyến giao thông cố định. Người vận chuyển và nhân viên hộ tống nên mặc quần áo phẫu thuật hoặc N95.

e. Toàn bộ bệnh nhân có sốt nên được sàng lọc nhiễm coronavirus mới và nên đến trung tâm lọc máu ở ca cuối cùng trong ngày đến khi tình trạng lâu nhiễm được loại trừ.

f. Lối ra vào bệnh viện và đơn vị lọc máu: điểm đón và trả không nên chia sẻ chung với bệnh nhân lọc máu khác. Lối vào và lối ra với các bệnh nhân khác nên tránh. Lối đi, phương tiện và thời điểm vận chuyển bệnh nhân nên cố định.

g. Chỉ định nhân viên chăm sóc: toàn bộ nhân viên bao gồm nhân viên điều trị trực tiếp cho bệnh nhân nên trang bị phương tiện bảo vệ đầy đủ, bao gồm: quần áo cách ly dài tay, không thấm nước; mũ trùm tóc, kính mắt; găng tay, khẩu trang y tế (mức độ phẫu thuật hoặc N95). Tuân thủ chặt chẽ quy định rửa tay.

i. Máy lọc máu: thiết bị tiếp xúc với bệnh nhân hoặc có khả năng bị nhiễm bẩn nên được khử khuẩn theo quy trình chuẩn.

10. Nếu ca bệnh mới được xác định hoặc có mức độ nghi ngờ cao bị lây nhiễm coronavirus mới ở trung tâm lọc máu, việc khử khuẩn nên được thực hiện ngay lập tức. Các khu vực tiếp xúc gần với bệnh nhân đó không nên sử dụng cho bệnh nhân khác cho đến khi đã được làm sạch thích hợp.

11. Chất thải y tế từ bệnh nhân đã xác định hoặc nghi ngờ nhiễm coronavirus mới nên được lưu ý là chất thải y tế nguy cơ lây nhiễm cao và được thải bỏ theo quy định.

Chiến lược hành động cho người nhà hoặc người chăm sóc

– Toàn bộ người nhà sống với bệnh nhân lọc máu phải được theo dõi chặt chẽ và thường xuyên để đề phòng lây truyền COVID-19 từ người sang người giữ các thành viên trong gia đình, bao gồm đo nhiệt độ, vệ sinh cá nhân tốt, rửa tay, báo cáo kịp thời về những người có khả năng mắc bệnh.

– Bệnh nhân lọc máu có một người nhà hoặc người chăm sóc bị cách ly cơ bản có thể vẫn lọc máu như bình thường trong thời gian 14 ngày.

– Khi thành viên trong gia đình hoặc người chăm sóc chuyển sang ca bệnh xác định, sự xác định của bệnh nhân nên được nâng mức độ và điều trị theo các điều chú ý ở trên.

Tổng hợp lại, COVID-19, một đại dịch do một chủng coronavirus mới, là một đe dọa nhân loại toàn cầu. Tổn thương thận có tỷ lệ nhiều hơn trong bệnh lây nhiễm này, và tổn thương thận cấp là một yếu tố tiên lượng độc lập của tỷ lệ tử vong. Quản lý bệnh nhân lọc máu, những bệnh nhân mà nghi ngờ là có tiếp xúc với COVID-19 nên được thực hiện theo quy trình chặt chẽ để giảm thiểu nguy cơ cho bệnh nhân khác và cho nhân viên y tế thực hiện điều trị cho bệnh nhân đó.

DISCLOSURE VJ reports grants from Baxter Healthcare, GSK, NephroPlus, Biocon, and Zydus Cadilla. All the other authors declared no competing interests.

REFERENCES

  1. Wang D, Hu B, Hu C, et al. Clinical characteristics of 138 hospitalized patients with 2019 novel coronavirus-infected pneumonia in Wuhan, China. JAMA. https://doi.org/10.1001/jama.2020.1585. Accessed March 2, 2020.
  2. World Health Organization. Coronavirus disease (COVID-2019) situation reports. Available at: https:// www.who.int/emergencies/diseases/novelcoronavirus-2019/situation-reports. Accessed March 16, 2020.
  3. World Health Organization. Report of the WHO-China Joint Mission on Coronavirus Disease 2019 (COVID-19). Available at: https://www.who.int/docs/defaultsource/coronaviruse/who-china-joint-mission-oncovid-19-final-report.pdf. Accessed March 2, 2020
  4. World Health Organization. Summary of probable SARS cases with onset of illness from 1 November 2002 to 31 July 2003. Available at: https://www.who. int/csr/sars/country/table2004_04_21/en/. Accessed January 27, 2020.
  5. World Health Organization. Middle East respiratory syndrome coronavirus (MERS-CoV). November 2019. Available at: http://www.who.int/emergencies/merscov/en/. Accessed February 27, 2020.
  6. Huang C, Wang Y, Li X, et al. Clinical features of patients infected with 2019 novel coronavirus in Wuhan, China. The Lancet. 2020;395:497–506.
  7. Center for Disease Control and Prevention. Frequently asked questions and answers: Coronavirus Disease2019 (COVID-19) and children. Available at: https:// www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/specific-groups/ children-faq.html. Accessed March 2, 2020.
  8. Ling L, Taisheng L. The National Health Commission of PRC Guideline for diagnosis and treatment of novel coronavirus disease (version 6). Natl Med J China. 2020;100:E001.
  9. World Health Organization. Specimen referral for 2019nCoV – operational details of referral laboratories. Available at: https://www.who.int/docs/defaultsource/coronaviruse/who-appointed-2019-ncovreferral-laboratories-7-february-2020.pdf? sfvrsn=c3fa3ec3_4. Accessed March 2, 2020.
  10. Normile D. Singapore claims first use of antibody test to track coronavirus infections. Available at: https:// www.sciencemag.org/news/2020/02/singaporeclaims-first-use-antibody-test-track-coronavirusinfections. Accessed March 2, 2020.
  11. Chen N, Zhou M, Dong X, et al. Epidemiological and clinical characteristics of 99 cases of 2019 novel coronavirus pneumonia in Wuhan, China: a descriptive study. Lancet. 2020;395:507–513.
  12. Guan WJ, Ni ZY, Hu Y, et al. Clinical characteristics of 2019 novel coronavirus infection in China [e-pub ahead of print]. N Engl J Med. https://doi.org/10.1056/ NEJMoa2002032. Accessed March 2, 2020.
  13. Cheng Y, Luo R, Wang K, et al. Kidney impairment is associated with in-hospital death of COVID-19 patients [e-pub ahead of print]. medRxiv 2020.02.18.20023242. https://doi.org/10.1101/2020.02.18.20023242. Accessed March 2, 2020.
  14. Li Z, Wu M, Guo J, et al. Caution on kidney dysfunctions of 2019-nCoV patients. medRxiv 2020.02. 08.20021212. Accessed March 2, 2020.
  15. Li W, Moore MJ, Vasilieva N, et al. Angiotensinconverting enzyme 2 is a functional receptor for the SARS coronavirus. Nature. 2003;426:450–454.
  16. Raj VS, Mou H, Smits SL, et al. Dipeptidyl peptidase 4 is a functional receptor for the emerging human coronavirus-EMC. Nature. 2013;495:251–254.
  17. Peiri JSM, Chu CM, Cheng VCC, et al. Clinical progression and viral load in a community outbreak of coronavirus-associated SARS pneumonia: a prospective study. Lancet. 2003;361:1767–1772.
  18. Ding Y, He L, Zhang Q, et al. Organ distribution of severe acute respiratory syndrome (SARS) associated coronavirus (SARS-CoV) in SARS patients: implicationsfor pathogenesis and virus transmission pathways. J Pathol. 2004;203:622–630.
  19. The team of Zhong Nanshan responded that the isolation of SARS-CoV-2 from urine remind us to pay more attention to the cleaning of individuals and families. Guangzhou Daily. Published February 22, 2020.
  20. Expert Team of Chinese Society of Nephrology. Expert consensus on diagnosis and treatment of 2019 novel coronavirus (2019 – nCoV) infection with acute kidney injury. Chin J Nephrol. 2020;3. https://doi.org/10.3760/ cma.j.cn441217-20200222-00035.
  21. Gao J, Tian Z, Yang X. Breakthrough: chloroquine phosphate has shown apparent efficacy in treatment of COVID-19 associated pneumonia in clinical studies. Biosci Trends. 2020;14:72–73.
  22. Chu KH, Tsang WK, Tang CS, et al. Acute renal impairment in coronavirus-associated severe acute respiratory syndrome. Kidney Int. 2005;67:698– 705.
  23. Arabi YM, Arifi AA, Balkhy HH, et al. Clinical course and outcomes of critically ill patients with Middle East respiratory syndrome coronavirus infection. Ann Intern Med. 2014;160:389–397.
  24. Ghani RA, Zainudin S, Ctkong N, et al. Serum IL-6 and IL-1-ra with sequential organ failure assessment scores in septic patients receiving high-volume haemofiltration and continuous venovenous haemofiltration. Nephrology (Carlton). 2006;11:386– 393.
  25. Chen RC, Tang XP, Tan SY, et al. Treatment of severe acute respiratory syndrome with glucosteroids: the Guangzhou experience. Chest. 2006;129:1441–1452.
  26. Arabi YM, Mandourah Y, Al-Hameed F, et al. Corticosteroid therapy for critically ill patients with middle east respiratory syndrome. Am J Respir Crit Care Med. 2018;197:757–767.
  27. Stockman LJ, Bellamy R, Garner P. SARS: systematic review of treatment effects. PLoS Med. 2006;3:e343.
  28. Russell CD, Millar JE, Baillie JK. Clinical evidence does not support corticosteroid treatment for 2019-nCoV lung injury. Lancet. 2020;395:473–475.
  29. Park BK, Maharjan S, Lee SI, et al. Generation and characterization of a monoclonal antibody against MERS-CoV targeting the spike protein using a synthetic peptide epitope-CpG-DNA-liposome complex. BMB Rep. 2019;52:397–402.
  30. Ma Y, Diao B, Lv X, et al. 2019 novel coronavirus disease in hemodialysis (HD) patients: report from one HD center in Wuhan, China. Available at: https://www. medrxiv.org/content/10.1101/2020.02.24.20027201v2. Accessed March 2, 2020.
  31. Expert Team of Chinese Medical Association Nephrology Branch. Recommendations for prevention and control of novel coronavirus infection in blood purification center (room) from Chinese Medical Association Nephrology Branch. Chin J Nephrol. 2020;36:82–84.
  32. Hwang S-J. Guideline for dialysis facilities during COVID-19 outbreak. Taiwan Society of Nephrology. Available at: https://tinyurl.com/yx3zc5up. Accessed March 16, 2020.

BSCKI Nguyễn Thanh Hùng – dịch